Cuộc chiến Điện Biên Phủ 1954 | Việt Nam – Pháp
Jhgo xin được chào các bạn!. Ngày 02/09/1945, Nhật Bản chính thức ký văn kiện đầu hàng quân đồng minh . chấm dứt cuộc chiến thảm khốc bậc nhất lịch sử loài người.. Mọi đau thương tưởng như đã kết
Cuộc chiến Điện Biên Phủ 1954 | Việt Nam – Pháp
Jhgo xin được chào các bạn!. Ngày 02/09/1945, Nhật Bản chính thức ký văn kiện đầu hàng quân đồng minh . chấm dứt cuộc chiến thảm khốc bậc nhất lịch sử loài người.. Mọi đau thương tưởng như đã kết thúc,. thế nhưng câu chuyện lại dường như chỉ mới bắt đầu. tại bán đảo Đông Dương.. Người Nhật lúc đó mất quyền kiểm soát các thuộc địa,. và người Pháp đã trở lại với quyết tâm tái chiếm liên bang Đông Dương. mà ngày nay là Lào, Campuchia và Việt Nam.. Cuộc chiến này được nhiều nước gọi là chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất.. Người Việt quen gọi nó là kháng chiến chống Pháp.. Lực lượng tham chiến có thể điểm danh như sau. Bên thứ nhất là lực lượng liên hợp Pháp,. bao gồm quân đội viễn chinh Pháp,. binh đoàn Lê dương cùng các lực lượng bản xứ của quân đội quốc gia Việt Nam,. quân đội vương quốc Lào, quân đội vương quốc Campuchia,.
Nằm trong liên hợp Pháp. Bên còn lại là lực lượng Việt Nam dân chủ cộng hòa, còn được gọi là Việt minh viết tắt của từ ” Việt Nam độc lập đồng minh hội”. phối hợp cùng quân đội kháng chiến của Lào và Campuchia. Quân đội của Việt Nam dân chủ cộng hòa được đặt tên là Quân đội Nhân dân Việt Nam. Cần nói thêm rằng, binh đoàn Lê dương là một đội quân đánh thuê, họ không tuyên thệ trung thành với nước Pháp, mà chỉ tuyên thệ trung thành với Binh đoàn Lê dương. Người ta không đòi hỏi gì về quá khứ của người gia nhập, bất kể là xã hội đen hay xã hội nâu nên rất thiện chiến. Bản chất cái tên chuẩn của nó là Legion, có nguồn gốc từ tiếng La tinh, ám chỉ các binh đoàn chiến đấu La Mã thời cổ đại. Khi đến Việt Nam, Legion được Việt hoá thành Lê dương và quen thuộc cho tới ngày nay.
Lính Lê Dương đến từ rất nhiều khu vực khác nhau như Bắc Phi, Trung Phi, châu Á, Châu Âu trong đó lính Đức chiếm đến 80% trong binh đoàn này tại Việt Nam, mà phần lớn được tuyển mộ từ lực lượng tù binh phát xít Đức. Xung đột thực sự đã nổ ra từ ngày 23/9/1945 khi Pháp theo chân Anh Quốc tiến vào miền Nam Việt Nam để giải giáp quân Nhật. Kháng chiến chính thức bắt đầu từ tháng 12/1946 khi Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến. “Hỡi đồng bào toàn quốc chúng ta muốn hòa bình, chúng ta đã nhân nhượng nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới. Vì chúng quyết cướp nước ta một lần nữa.
Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ. Hỡi đồng bào, chúng ta phải đứng lên, bất kỳ đàn ông hay đàn bà, người già hay người trẻ, không chia tôn giáo, Đảng phái, dân tộc hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp, cứu Tổ quốc. Ai có súng thì dùng súng Ai có gươm thì dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân, cứu nước. Hỡi anh em binh sĩ, tự vệ, dân quân Giờ cứu quốc đã đến, ta phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng để giữ gìn đất nước. Dù phải gian khổ kháng chiến, nhưng với một lòng kiên quyết hy sinh, thắng lợi nhất định về dân tộc ta.
Cũng chính Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dự báo rằng: “Đó sẽ là 1 cuộc chiến giữa voi và hổ. Nếu hổ đứng yên nó sẽ bị voi dẫm chết. Nhưng hổ không đứng yên. Ban ngày nó ẩn nấp trong rừng và ra ngoài vào ban đêm. Nó sẽ nhảy lên lưng voi, xé những mảnh da lớn, rồi chạy trở lại vào rừng tối. Dần dần, con voi sẽ chảy máu đến chết. Cuộc chiến tranh ở Đông Dương sẽ như vậy.” Trong cuộc chiến ấy, 1 trong những chiến dịch lớn nhất, khốc liệt nhất, mang tính chất quyết định nhất không thể không kể đến, đó là chiến dịch Điện Biên Phủ huyền thoại, diễn ra năm 1954, tại lòng chảo Mường Thanh, thuộc tỉnh Điện Biên ngày nay.
Ngay từ những ngày đầu trở lại, quân đội Pháp quyết tâm bình định Đông Dương bằng mọi giá, chỉ có điều là sau thế chiến 2, người dân nơi đây lại báo giá hơi cao. Vì vậy, đến cuối năm 1953, quân đội Pháp ngày càng lún sâu vào cuộc chiến kéo dài đã 8 năm, khiến nền kinh tế hầu như không còn đủ sức gánh chịu, họ phải cầu viện sự trợ giúp của Hoa Kỳ. Kết quả là tới trước năm 1954, 73% chiến phí của Pháp ở Đông Dương do Hoa Kỳ chi trả. Người Pháp lập tức bổ nhiệm viên tướng dày dạn kinh nghiệm Henri Navarre làm Tổng Chỉ huy tối cao tại Đông Dương, tiến hành xây dựng lực lượng cơ động lớn, kết hợp mở rộng Quân đội Quốc gia Việt Nam.
Trước mùa khô 19531954, trên toàn lãnh thổ Việt nam, quân đội Liên hiệp Pháp đang chiếm thế áp đảo, với tổng quân số là 445.000 người, gồm 146.000 lính Âu Phi và 299.000 lính người Việt . Lực lượng Pháp không chỉ có bộ binh, mà còn có hơn 600 máy bay, gần 500 tàu, tăng thiết giáp và pháo binh nhiều vô số kể. Lực lượng Quân đội Nhân dân Việt Nam có tổng quân số là 252.000 người, chỉ bằng hơn 1 nửa so với lực lượng Liên hiệp Pháp. Ngoài việc tổ chức được 1 số trung đoàn pháo binh, còn lại họ chỉ có thuần là bộ binh. Các đơn vị của Việt Minh cũng có quân số biên chế ít hơn. 1 tiểu đoàn của Quân đội Nhân dân Việt Nam chỉ có hơn 600 người, trong khi biên chế tiểu đoàn Pháp lên tới 1.000 người.
Về mặt viện trợ, tính đến năm 1954, con số mà Việt Minh nhận được từ Liên Xô, Trung Quốc vào khoảng dưới 1% so với con số khổng lồ mà người Mỹ dành cho người Pháp. Viện trợ của Mỹ đã vượt qua 4 tỷ USD . Tổng cộng Mỹ đã cung cấp trên 400.000 tấn vũ khí các loại, 360 máy bay, 347 tàu bè, 1.400 xe tăng và xe bọc thép, 16.000 xe vận tải, đạn dược thì bắn cứ gọi là vô tư. Còn phía Việt Minh nhận được tổng cộng hơn 21.500 tấn hàng viện trợ các loại, trị giá khoảng 34 triệu đôla khi đó . Lúc bấy giờ, Điện Biên Phủ là một thung lũng phì nhiêu ở Tây Bắc Việt Nam, dài 15 km, rộng 5 km, cách Hà Nội khoảng 1 giờ bay.
Ở đó có một sân bay dã chiến nhỏ bỏ hoang từ khi quân đội Nhật đầu hàng vào năm 1945, nằm ở phía bắc lòng chảo, có núi đồi trập trùng, rừng cây bao quanh. Chỉ huy quân đội Pháp tại Bắc KỳTướng Cogny đã nhấn mạnh “Điện Biên Phủ là một căn cứ bộ binh không quân lý tưởng, là “chiếc chìa khoá” của Thượng Lào”. Vì vậy, người Pháp quyết định biến nơi này thành 1 Tập đoàn cứ điểm, án ngữ vùng Tây Bắc, kiểm soát liên thông với Thượng Lào để làm bẫy nhử, thách thức quân chủ lực Việt Minh tấn công. Theo kế hoạch của Pháp, Việt Minh sẽ bị nghiền nát tại đây. Cuối tháng 11/1953, Pháp tổ chức cuộc hành quân Castor để đánh chiếm Điện Biên Phủ. Sau 1 số cuộc đụng độ, đến ngày 22/11/1953, khoảng 4.500 lính dù đã có mặt tại cánh đồng Mường Thanh.
2 ngày sau, lực lượng Pháp đã sửa chữa xong đường băng do người Nhật để lại, cơ bản kiểm soát thành công Điện Biên Phủ, nhờ vậy, quân số được tăng cường liên tục bằng đường hàng không. Ngày 7/12, Đại tá Christian de Castries với nickname thân thuộc tại Việt Nam là Đờ Cát đã được chỉ định làm Tổng Chỉ huy tập đoàn cứ điểm. Có người hỏi Navarre sao lại trao quyền cho 1 đại tá, đáng lẽ phải là lon cấp tướng, Navarre trả lời: “Cả tôi lẫn Cogny đều không nhìn lon mà xét người, cũng chẳng sùng bái gì nhiều mấy ngôi sao cấp tướng. Tôi khẳng định: trong số các chỉ huy được lựa chọn, không ai có thể làm tốt hơn Castries”.
Những người Việt Minh đã buộc phải hạ quyết tâm Nhanh chóng tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, tạo bước ngoặt mới trước khi Mỹ can thiệp sâu vào Đông Dương. Tương quan lực lượng tại Điện Biên Phủ Lực lượng quân Pháp tham gia chiến dịch bao gồm 1 phi đội máy bay tại chỗ 14 chiếc. Khoảng 400 máy bay các loại từ những sân bay lân cận . Có thể kể đến máy bay ném bom B26, máy bay cường kích F6F Hellcat, máy bay vận tải C119 và rất nhiều chủng loại khác. 10 xe tăng hạng nhẹ M24 , xe tăng hạng nặng không tham gia vì không phù hợp địa hình đồi núi, ngoài ra còn có 200 xe vận tải. Pháo binh có 4 trọng pháo 155 ly, 28 khẩu pháo 105 ly, 20 súng cối 120 ly.
Bộ binh có 16 tiểu đoàn và 7 đại đội, ngoài ra còn có 1 tiểu đoàn công binh. Lực lượng này gồm khoảng 16.200 lính Pháp , 4000 binh sĩ thuộc Quân đội Quốc gia Việt Nam, 30.000 quân nhân kỹ thuật vận hành cho không quân Pháp đóng ở các sân bay quân sự Bắc Bộ, 3.000 phu khuân vác người Việt . Tập đoàn cứ điểm gồm 3 phân khu, với tổng cộng 49 cứ điểm phòng thủ kiên cố liên hoàn, xung quanh hàng rào dây kẽm gai có mìn chôn khắp nơi, công sự ngầm chống tác động của đạn pháo 105mm, và được trang bị hỏa lực rất mạnh yểm trợ lẫn nhau. Phân khu Bắc có các đồi: Him Lam, Độc Lập, và Bản Kéo, ngăn chặn hướng tấn công từ phía Bắc, Đông Bắc và Tây Bắc.
Phân khu Trung tâm: bao gồm sân bay Mường Thanh, các cao điểm phía đông và phía tây. Đây là khu vực mạnh nhất của quân Pháp, với 2/3 lực lượng. Phân khu Nam: có sân bay Hồng Cúm và các cứ điểm phía Nam. Chỉ huy trưởng: Đại tá Đờ Cát, về sau được lên lon Chuẩn Tướng ngay trong quá trình diễn ra chiến dịch. 2 sân bay Mường Thanh và Hồng Cúm, kết nối cầu hàng không với Hà Nội, Hải Phòng. Trung bình mỗi ngày có gần 100 lần chiếc máy bay vận tải tiếp tế khoảng 200300 tấn hàng. Theo các nhà số học, việc tiếp tế bằng đường hàng không của Mỹ cho Điện Biên Phủ đã tiêu thụ 82.296 chiếc dù, nhiều lúc tưởng như đã che phủ cả ánh mặt trời nơi đây. Đích thân Phó Tổng thống Hoa Kỳ Richard Nixon đã rất hài lòng khi đến thị sát khoản đầu tư của người Mỹ tại đây.
Phía Quân đội Nhân dân Việt Nam tham gia chiến dịch gồm 11 trung đoàn bộ binh thuộc các đại đoàn bộ binh 304, 308, 312, 316 1 trung đoàn công binh 2 trung đoàn pháo binh, hỏa lực mạnh nhất chỉ có 24 khẩu pháo 105mm, 24 khẩu sơn pháo 75mm và 16 khẩu súng cối cỡ 120mm. Trong số này, có 4 khẩu pháo 105mm thu được từ Pháp, còn lại đa số do Liên Xô và Trung Quốc viện trợ) 1 Trung đoàn pháo phòng không với 24 khẩu pháo 61K cỡ nòng 37mm . 4 đơn vị thanh niên xung phong có nhiệm vụ hỗ trợ chiến đấu . Tổng số quân chính quy là 53.800, thanh niên xung phong khoảng 20.000 người, về sau khoảng 8.000 thanh niên xung phong được chuyển sang bổ sung cho lực lượng chính quy. Hơn 261.000 dân công vận tải hậu cần, gấp 5 lần lực lượng quân chủ lực, đó là nhờ sự ủng hộ Việt Minh rất mạnh mẽ từ nhân dân các địa phương.
Tổng Tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam là Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Bộ đội Việt Minh đã giải 1 bài toán phải nói là rất căng. Riêng cho chiến đấu trong chiến dịch sẽ phải dùng ít nhất 4.200 tấn gạo, 100 tấn rau, 100 tấn thịt, 80 tấn muối, 12 tấn đường. Tất cả đều phải vận chuyển trên hành trình hơn 500 km, phần lớn là đèo dốc hiểm trở miền núi, máy bay Pháp thường xuyên đánh phá. Theo kinh nghiệm ở chiến dịch Tây Bắc , nếu dân công gánh gạo bằng đòn gánh, để có 1kg gạo đến đích cần 24kg ăn dọc đường. Muốn có 4.200 tấn gạo nói trên phải huy động từ hậu phương hơn 100.000 tấn gạo, cần hơn 2 triệu dân công để gánh, đó là chưa kể rau, thịt, muối, đường Con số này nói trắng ra là bất khả thi.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng các cán bộ chỉ huy đã đề ra những giải pháp với sức mạnh nhân dân. Ngoài việc động viên đồng bào dân tộc Tây Bắc tiết kiệm đóng góp ngay tại chỗ, Việt Minh còn huy động tối đa các phương tiện thô sơ. Một trong những lực lượng vận tải quan trọng là đội xe thồ với trên 2 vạn người, xe có thể hoạt động trên các địa hình hiểm trở, năng suất mỗi xe chở được 200–300 kg, kỷ lục lên đến 352 kg . Các phương tiện thô sơ khác tăng cường bao gồm: 11.800 bè di chuyển trên sông, hơn 7.000 xe cút kít, 1.800 xe trâu, 325 xe ngựa. Trừ số tiêu hao dọc đường, lượng hàng tới được mặt trận đã vượt dự kiến ban đầu, lên tới 14.950 tấn gạo, 266 tấn muối, 62 tấn đường, 577 tấn thịt, 565 tấn lương khô, 1.200 tấn đạn, 1.733 tấn xăng dầu và 177 tấn vật chất khác. Nếu ăn đủ 1.200 tấn đạn nói trên đối thủ sẽ tiết kiệm được 1 lượng lương thực đáng kể.
Ngày nay chúng ta lái xe lên Điện Biên chỉ để đi chơi thôi cũng đã khá căng, đủ thấy ý chí con người khi đó khủng khiếp ra sao. Việc kéo pháo vào trận địa cũng là 1 nỗ lực khó có thể tưởng tượng Xe kéo pháo chỉ có thể vào cách Điện Biên 15 km. Những khẩu pháo 105mm nặng tới 2.2 tấn. Từ đây, các khẩu pháo được kéo bằng tay vào trận địa trên quãng đường dài 15 km rất hiểm trở, có nơi phải kéo qua những ngọn núi cao tới 1.150m, và bên trên là làn mưa đạn khủng khiếp. Máy bay Pháp đã không kích gần 1.200 trận, có những trận cao điểm tại đèo Pha Đin, Pháp đã ném tới 300 quả bom các loại, và chính tại đây, 1 ngành công nghiệp mới của người Việt đã bắt đầu.
Tất cả vũ khí của quân Pháp đều là do không quân vận tải đến. . Vì vậy, việc đối phương đưa được pháo 105mm vào sâu bên trong lòng núi, sườn đồi,. chỉ cách mục tiêu chừng 5–7 km,. bằng khoảng 1 nửa tầm bắn tối đa là điều người Pháp không thể ngờ tới.. Phương án bố trí pháo của 2 bên hoàn toàn trái ngược, . Việt Minh thực hiện nguyên tắc “hỏa khí phân tán, hỏa lực tập trung”. được tướng Giáp đưa ra. Phía Pháp lại bố trí hỏa khí tập trung ở trung tâm, . nên nhanh chóng trở thành bia diễn tập lý tưởng cho đối phương, . hỏa lực bắn phân tán ra xung quanh dẫn đến thiếu chính xác.. Tuy nhiên nói có đi thì phải có lại, các đồn bốt của Pháp lợi thế ở trên cao,. dự trữ đạn pháo dồi dào hơn hẳn, có máy bay, tăng thiết giáp yểm trợ, . nên áp đảo hoàn toàn về hỏa lực. Trung bình cứ 1 bộ đội Việt Minh sẽ phải hứng chịu 2 trái pháo,.
1 trái bom và 6 viên đạn cối, chưa kể các loại đạn khác, trong khi không có tăng thiết giáp yểm trợ tiến công. Riêng về đạn pháo, Quân đội Nhân Dân Việt Nam đã phải sử dụng rất tiết kiệm. Các đơn vị muốn xin pháo bắn chi viện thì từ 3 viên phải được Tham mưu trưởng xác nhận, còn từ 5 viên đạn trở lên phải được đích thân Tổng Tư lệnh là đại tướng Võ Nguyên Giáp kí duyệt. Bên cạnh đó, pháo binh Quân đội Nhân dân Việt Nam còn lập trận địa pháo giả, khi tác chiến, bộ đội tại đó tung lên vài quả bộc phá, rồi rút lui. Máy bay trinh sát Pháp nghĩ đó là pháo Việt Minh sẽ phát tín hiệu để hỏa lực tiêu diệt.
Ước tính người Pháp đã mất tới 80% bom đạn để đánh các trận địa giả. Có lẽ ngành hàng mã Việt Nam cũng bắt đầu phát triển từ đây. Ngày 14/1/1954 tại hang Thẩm Púa, tướng Giáp và Bộ Chỉ huy chốt phương án: “đánh nhanh thắng nhanh”, tiêu diệt Điện Biên Phủ trong 3 ngày đêm, với sức tiến công đồng loạt vũ báo, và ngày nổ súng dự định là 20/1. Tuy nhiên, vì 1 số lý do, cộng thêm rất nhiều đêm suy nghĩ, tướng Giáp đã quyết định buộc phải rút bộ binh và pháo binh khỏi trận địa. Ông nhận thấy phương án “đánh nhanh thắng nhanh” mang nhiều tính chủ quan, với 3 khó khăn rõ rệt Bộ đội chủ lực chưa có kinh nghiệm đánh cấp tập các công sự kiên cố liên hoàn trên địa hình bằng phẳng vào ban ngày.
Hai là Pháo binh và bộ binh chưa từng đánh hiệp đồng lớn như thế này. Ba là Đối phương có ưu thế vượt trội tuyệt đối về máy bay, xe tăng và pháo binh. Ông kiên quyết tổ chức lại trận đánh theo phương án “đánh chắc, tiến chắc”, không sử dụng lối đánh xung phong trực diện, phải dùng cách đánh bóc vỏ, đào hào áp sát vây lấn, tiêu diệt dần từng trung tâm đề kháng, cho tới lúc Pháp không còn sức kháng cự, hạn chế tối đa thương vong của bộ đội Việt Minh. Sau này, đại tướng Võ Nguyên Giáp cho rằng đây là quyết định khó khăn nhất trong đời cầm quân của ông. Chiến dịch sẽ diễn ra trong cả mùa mưa, lực lượng và trận địa phải bố trí lại hoàn toàn, nhu cầu hậu cần tăng lên rất nhiều lần. Trong hồi ký, Navarre cũng khẳng định: “Nếu tướng Giáp tiến công như ý đồ ban đầu, chắc chắn ông ta sẽ thất bại”.
Giai đoạn cuối năm 1953, đầu năm 1954, . Pháp phát hiện lực lượng lớn phía Việt Minh từ nhiều hướng đang tiến về lòng chảo Điện Biên. . Tướng Đờ Cát tung lực lượng giải tỏa từ xa, nhiều cuộc đụng độ có kết quả không như mong muốn.. Quân Pháp quyết định tập trung lực lượng lại, nên đã ra lệnh rút đoàn quân từ Lai Châu về. . Thế nhưng quá nhọ nó lại biến thành một cuộc chạy trốn hỗn loạn. loạn khi bị đại đoàn 316 Quân đội Nhân dân Việt Nam phục kích truy đuổi quyết liệt. . Khi rời khỏi Lai Châu ngày 8/12/1953, toàn bộ lực lượng hỗn hợp Pháp có tổng cộng hơn 2.100 người, . khi về đến Điện Biên Phủ ngày 20/12, chỉ còn 185 người. . Lực lượng đặc công và bộ đội địa phương của Quân đội Nhân dân Việt Nam còn tổ chức đánh tập kích, . tiêu hao lực lượng không quân từ xa của Pháp tại các sân bay lớn như Gia Lâm, Cát Bi..
Tổng cộng có 24 máy bay Pháp đã bị phá hủy trong các vụ tấn công này. Toàn bộ chiến dịch có thể chia làm 3 đợt. Đợt 1 chính thức bắt đầu từ ngày 13/3/1954, với cuộc tấn công ồ ạt của Quân đội Nhân dân Việt Nam vào phân khu Bắc, bao gồm các trung tâm đề kháng chính tại Him Lam, Độc Lập và Bản Kéo. Phía Quân đội Nhân dân Việt Nam có sự tham gia chính của các Đại đoàn 312, 308 và 304. Để bảo đảm nguyên tắc “trận đầu phải thắng”, Quân đội Nhân dân Việt Nam đã lên kế hoạch rất tỉ mỉ, sử dụng lực lượng đông đảo gấp 3 lần quân Pháp. Lúc 17h05 phút chiều ngày 13/3/1954, Đại đoàn 312 bắt đầu tấn công đồi Him Lam. Khoảng 40 khẩu pháo và hàng loạt súng cối các chủng loại của Việt Minh khai hỏa bắn cấp tập Một viên đạn pháo 105mm rơi trúng Sở Chỉ huy Him Lam, khiến Thiếu tá Chỉ huy trưởng tại đây cùng 3 sĩ quan khác tử trận.
Điện đài bị hỏng, Him Lam mất liên lạc với Mường Thanh. Một kho xăng bốc cháy. Trận địa pháo của Pháp tê liệt hoàn toàn ngay từ đầu do trúng đạn pháo và súng cối của Việt Minh. 18 máy bay Pháp đang đậu gần đó cũng bị phá hủy . Sau hơn 4 tiếng đồng hồ bắn dữ dội, với khoảng 2.000 viên đạn pháo và hàng nghìn viên đạn súng cối khác, bộ binh của Quân đội Nhân dân Việt Nam xung phong tấn công như vũ bão. Trận chiến diễn ra ác liệt đến 23h30 đêm hôm đó mới kết thúc, Đại đoàn 312 dưới sự chỉ huy của Đại đoàn trưởng Lê Trọng Tấn, đã xóa sổ cứ điểm Him Lam, tiêu diệt hơn 300 lính Pháp, bắt sống khoảng 200 lính, thu giữ rất nhiều vũ khí, đạn dược. Phía Việt Minh do lực lượng phân tán nên thiệt hại ít hơn, khoảng 120 bộ đội đã ngã xuống, và 200 người bị thương.
Ngày 14/3, Pháp tăng cường 1 tiểu đoàn Dù cho Điện Biên Phủ.. Ngay rạng sáng ngày hôm sau, tức là ngày 15/3, lúc 3h30 phút,. Đại đoàn 308 Quân Đội Nhân dân Việt Nam . đã triển khai tấn công đồi Độc Lập.. Hơn 4h sáng, chỉ huy trưởng người Pháp tại cứ điểm đã bị thương nặng. . Quân Pháp mặc dù được yểm trợ tối đa bằng hỏa lực,. kể cả pháo 155 ly, không quân và xe tăng, vẫn thất thủ vào lúc 6h30 sáng ngày 15/3.. Binh lính sống sót đều bị bắt làm tù binh.. Cũng trong sáng hôm đó, chỉ huy pháo binh cụm cứ điểm Trung tá Charles Piroth, , . sau 2 đêm không thực hiện được lời hứa phá hủy các họng pháo của Việt Minh, . đã tự sát trong hầm bằng một trái lựu đạn. . Trung tá André Trancart, chỉ huy phân khu Bắc, bạn thân của Piroth kể lại rằng,. Piroth rơi nước mắt sau trận đồi Độc lập và nói: “Tôi đã mất hết danh dự..
Tôi đã bảo đảm với Tổng Chỉ huy sẽ không để pháo binh địch giành vai trò quyết định, vậy mà bây giờchúng ta sẽ thua trận. Tôi đi đây”. Sáng ngày 17/3, đồn Bản Kéo xôn xao vì có tin: Việt Minh sắp tiến công. Buổi trưa, binh lính người Thái kéo tới gặp viên Đại úy đồn trưởng, yêu cầu phát hết khẩu phần lương thực và giải tán cho binh lính về quê làm ăn. Đại úy Clácsăm cho rằng, đang đánh nhau toác đầu ra thế này thì làm ăn cái gì, đã ra lệnh cho binh lính theo mình rút về cứ điểm trung tâm. Nhưng binh lính không còn nghe theo lời chỉ huy, ào ào chạy về phía khu rừng. Clarchambre vội gọi điện về Mường Thanh, yêu cầu cho pháo bắn chặn đường đảo ngũ của binh sĩ Thái, nhưng không thể ngăn được.
Trung đoàn 36 thuộc Đại đoàn 308 Việt Minh đã chiếm gọn Bản Kéo mà không tốn một viên đạn. Kết quả của đợt 1, chỉ sau 5 ngày chiến đấu, cánh cửa phía bắc của tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ đã mở toang. 2 tiểu đoàn Pháp tinh nhuệ, cùng 1 tiểu đoàn và 3 đại đội thuộc quân đội Quốc gia Việt Nam bị tiêu diệt hoặc bắt sống, tổng cộng hơn 2.000 lính đã bị loại khỏi vòng chiến. Trong đợt 1 này, con số tổn thất của Quân đội Nhân dân Việt Nam là nhỏ hơn khá nhiều nhờ yếu tố địa hình và chiến thuật. Ngoài những chiếc máy bay bị tiêu diệt khi đang đậu trên đường băng, còn có thêm ít nhất 12 máy bay khác bị bắn rơi. Súng máy phòng không 12,7mm và pháo cao xạ 37mm của Việt Minh đã khiến các loại máy bay của Pháp, kể cả pháo đài bay B26 của Hoa Kỳ, đều có trong danh sách bị bắn rơi trên bầu trời Điện Biên Phủ.
Từ ngày 23/3, pháo binh Việt Minh đã loại bỏ khả năng cất cánh, hạ cánh của sân bay Mường Thanh và Hồng Cúm. Từ đó trở đi, các máy bay Pháp chỉ có thể tiếp tế bằng cách thả dù. Đợt 2 của chiến dịch diễn ra từ ngày 30/3/1954, Quân đội Nhân dân Việt Nam tiến công vào phân khu trung tâm, nhằm chiếm dãy đồi phía đông để khống chế cánh đồng Mường Thanh. Khu vực này được Pháp chia thành 4 trung tâm đề kháng. Mỗi trung tâm lại có trên dưới 20 cứ điểm. 6 cứ điểm có vị trí chiến lược quan trọng nhất, đó là E, D2, D1, C2, C1 và A1. Riêng đồi A1 giữ vai trò đặc biệt quan trọng, khống chế phạm vi rộng lớn, gồm cả sở chỉ huy của tướng Đờ Cát.
18h ngày 30/3/1954, . tại cao điểm C1 , Quân đội Nhân dân Việt Nam với sự hỗ trợ của pháo binh, . đã xung phong chiếm được trận địa, cắm cờ lên nóc sở chỉ huy,. sau đó dùng lưỡi lê, lựu đạn, lao lên đánh giáp lá cà. . Trận đánh diễn ra đúng 45 phút. . Do tinh thần lực lượng Pháp ở đây đi xuống trầm trọng, cộng thêm yếu tố bất ngờ, . nên số thương vong của Quân đội Nhân dân Việt Nam được giảm tối đa, . chỉ khoảng hơn 10 người, trong khi phía Pháp có it nhất 140 lính bị tiêu diệt hoặc bắt sống.. Tại Đồi C2 , lúc 23h đêm, . một trung đội Việt Minh đã đột nhập được vào chiến hào Pháp, . chiếm liên tiếp 11 lô cốt và ụ súng. . Tuy nhiên lực lượng phía sau qua nhiều lần xung phong đều bị hỏa lực rất mạnh của Pháp cản lại. . Tuy không có con số chính xác, nhưng tại đồi C2, Quân đội Nhân dân Việt Nam thương vong rất nhiều..
Tiểu đoàn 215 buộc phải lui về C1 củng cố lực lượng. Tại cao điểm D1, Trung đoàn 209 chỉ mất 5 phút đầu tiên thọc sâu chia cắt đội hình Pháp. Tuy nhiên ngay sau đó, quân Pháp chống trả quyết liệt, bộ đội Việt Minh mất tới 2 giờ chiến đấu với thương vong không hề nhỏ mới kiểm soát được toàn bộ đồi D1. Tại cao điểm E , pháo Việt Minh khai hỏa đúng lúc quân Pháp đang đổi ca giữa 2 đại đội ngoài hầm trú ẩn, đã bị tiêu diệt gọn. Cứ điểm bị chiếm dễ dàng. Bộ đội Việt Minh tiếp tục tiến công sang D2. Tại đây, cuộc chiến đấu ác liệt kéo dài, mãi đến khi trời sáng D2 mới chịu thất thủ. Thương vong của cả 2 phía đều rất nặng nề.
Tại đồi A1, Trung đoàn trưởng Nguyễn Hữu An ra lệnh cho hỏa lực của Trung đoàn 174 bắn vào cứ điểm, yểm trợ cho bộ binh xung kích. Tuy nhiên, cứ điểm này rất kiên cố, gài mìn khắp nơi, có nhiều giao thông hào liên hoàn. Tất cả các lô cốt và hầm trú ẩn đều có nắp đậy, chịu được cả đạn pháo 105mm. Lúc đó cuộc chiến trên những cao điểm khác đã kết thúc, toàn bộ hỏa lực Pháp bắn dữ dội tập trung hỗ trợ đồi A1. Lực lượng Quân đội Nhân dân Việt Nam bị tổn thất rất nặng nề, hơn nửa giờ chỉ tiến được gần 100m, rồi phải khựng lại. Cuộc chiến suốt cả đêm kéo dài đến gần sáng, nhưng thế trận vẫn giằng co.
Mặc dù Trung đoàn 174 và Trung đoàn 98 đã sử dụng đến lực lượng dự bị cuối cùng, họ vẫn chưa làm chủ được 2 cao điểm then chốt A1 và C2. Thậm chí ngay tại những cứ điểm đã chiếm được, cũng đang rất mong manh nếu Pháp phản công. Ngay lập tức, Trung đoàn 102 thuộc Đại đoàn 308, được lệnh di chuyển từ phía tây sang tăng viện cho phía đông, để hỗ trợ phòng ngự và tiếp tục tiến công tiêu diệt A1. Đúng như nhận định, sang ngày 31/3, Pháp phản kích dữ dội. Quân đội Nhân dân Việt Nam tử thương rất nhiều vì dính đạn pháo. Sau 25 phút giao chiến, Pháp chiếm lại gần hết đồi D1, dồn lực lượng phòng ngự của Việt Minh vào một góc đồi.
Quân đội Nhân dân Việt Nam dùng lựu đạn, lưỡi lê đánh lui những đợt phản kích của Pháp, quyết tử giữ mảnh đồi còn lại. Điện đàm liên lạc bị cắt, nhưng đài chỉ huy phía Việt Minh đã quan sát thấy tình hình, lập tức điều 2 đại đội chi viện. Sau hơn 1 giờ chiến đấu, quân Pháp buộc phải rút về Mường Thanh, vừa không chiếm lại được D1mà còn phải bỏ luôn cả D3 và rút trận địa pháo khỏi cao điểm 210 do những vị trí này không thể đứng vững nếu đã mất D. 1h30 chiều cùng ngày, tại đồi C1, nơi 2 bên đang giằng co quyết liệt, Pháp được tăng viện 2 tiểu đoàn dù, giúp họ chiếm được điểm cao Cột Cờ, đẩy lực lượng Việt Minh vào thế bất lợi.
Ngay lúc đó, lực lượng tăng viện của Trung đoàn 102 đã lên kịp thời, . cùng lực lượng phòng ngự đánh bật quân Pháp khỏi Cột Cờ.. Đến 16h chiều ngày hôm đó, quân Pháp buộc phải rút lui, để lại trận địa gần 100 binh sĩ tử trận.. Những cuộc phản kích của Pháp ngày 31/3 đã hoàn toàn thất bại, . nhưng cũng gây ra những thiệt hại khủng khiếp cho phía Việt Minh,. đặc biệt là phong cách tử thủ của người Pháp tại đồi A1.. Trong suốt tháng 4, Quân đọi Nhân dân Việt Nam sử dụng chiến thuật “vây lấn” và “bắn tỉa”,. vừa để tiêu hao sinh lực địch,. vừa có thời gian củng cố lại lực lượng do các trận đánh trước đó gây thương vong không nhỏ. . Bộ đội chủ lực và lính công binh phải lao động cật lực từ 14 đến 18 tiếng mỗi ngày để đào hào. . Thời tiết lại không thuận lợi: mưa dầm, gió bấc, công sự lầy lội, bùn nước . dưới làn mưa bom bão đạn của quân Pháp..
Phía Việt Minh đã sáng tạo ra những “con cúi”, dài khoảng 2m, đường kính 1 mét, được bện chặt bằng rơm, hoặc nhồi đặc bằng thân cây. Ban đêm, “con cúi” được lăn lên phía trước, chắn đạn cho bộ đội đào hào. Ở phía bên kia, quân Pháp cũng phải sống trong những điều kiện cực kỳ khủng khiếp, thương binh tử sĩ nhiều vô số kể. Ruồi, muỗi, rắn, rết và rất nhiều côn trùng từ trong rừng, sông, suối, nước đọng kéo tới do có tập trung mùi tử khí. Việt Minh thành lập các tổ thiện xạ tìm những vị trí bất ngờ để phục kích, bắn tỉa. Việc đi lấy nước dưới sông trở thành gameshow mạo hiểm với lính Pháp, họ phải dùng nước đầy cặn váng đục ngầu từ giếng đào tại chỗ. Có giai đoạn, chỉ trong vòng 10 ngày, lực lượng bắn tỉa của Đại đoàn 312 tiêu diệt 110 lính Pháp, ngang với số quân bị loại khỏi vòng chiến trong một trận đánh ác liệt.
Việc phải đề phòng cả ngày lẫn đêm khiến quân Pháp luôn cảm thấy mệt mỏi, lo sợ. Vấn đề ship hàng đến Điện Biên Phủ trở nên cực kì khó khăn vì pháo phòng không, nhiều máy bay bị bắn hạ nên họ buộc phải bay cao để thả dù, gây thiếu chính xác. Chỉ tính riêng ngày 264, trong 150 tấn hàng tiếp tế, chỉ có 91 tấn đến tay quân Pháp, còn lại 59 tấn đến tay quân đội Việt Minh. Một số nhà Thổ địa học tại Đông Dương khi quan sát thấy đã nhận định rằng “Rất có thể người Việt đang kéo dài trận đánh, tranh thủ thu gom thêm hàng tiếp tế bằng dù, để chuẩn bị dần cho cuộc chiến với người Mỹ sau đó không lâu.” Tuy nhiên, quan điểm này vẫn còn đang gây nhiều tranh cãi.
Chỉ tính riêng số đạn pháo 105mm thu được đã là hơn 5.500 viên, tương đương 13 kho đạn của Quân đội Nhân dân Việt Nam, giúp bổ sung đáng kể cho giai đoạn cuối chiến dịch. Các loại thực phẩm nhiều vô số. Một trung đoàn Việt Minh khác trong một tuần đã thu được 776 dù trong đó có đạn dược, gạo, thịt hộp, cá hộp, muối, đường, nước ngọt, rau xanh, bánh quy, bánh mì, trứng, bơ, sữa ngũ cốc, trái cây, kể nữa thì rất là mệt, nhưng thậm chí còn có các loại rượu, có lẽ họ chuẩn bị liên hoan. Về quân số, lực lượng Pháp ở Bắc Bộ cũng đã hết lính dù để tiếp viện, khiến tình cảnh Điện Biên Phủ ngày càng bi đát. Để động viên tinh thần, tháng 4/1954, chính phủ Pháp đã thăng quân hàm trước thời hạn cho Đờ Cát, từ Đại tá lên Chuẩn tướng.
Nhận thấy thời cơ đã đến, . Quân đội Nhân dân Việt Nam quyết định tổ chức đợt tấn công thứ 3, . bắt đầu từ ngày 1/5/1954.. Nhiệm vụ chính bao gồm. Đại đoàn 316 hoàn thành nốt mục tiêu của Đợt 2 là tiêu diệt toàn bộ lực lượng Pháp tại A1, C1 và C2.. Đại đoàn 312 tiến đánh các cứ điểm phía Đông. . Đại đoàn 308 tiến đánh các cứ điểm phía Tây.. Sau đó tất cả cùng đánh thọc sâu vào trung tâm.. Đại đoàn 304: chốt chặn không cho quân địch rút chạy sang Lào,. siết chặt vòng vây chung quanh Hồng Cúm.. Công sự ngầm tại đồi A1 kiên cố đến mức gần như bất khả xâm phạm, . gây ra thương vong khổng lồ cho Quân đội Nhân dân Việt Nam suốt từ đầu chiến dịch. . Sau rất nhiều tính toán, bộ đội Việt Minh đã tìm ra 1 cách đánh đột phá, . đó là đào đường hầm từ trận địa của mình xuống sâu tận bên dưới hầm ngầm của Pháp, . sau đó đưa bộc phá với số lượng lớn vào đặt nổ..
Trong quá trình thực hiện, để đảm bảo tuyệt đối cho kế hoạch, nhiều nhóm bộ đội Việt Minh đã phải chiến đấu đến những ngươi cuối cùng để bảo vệ cửa hầm. Ngày 15, pháo binh Việt Minh từ đồi D1 bắn cấp tập vào vị trí quân đội Pháp tại C1. Dứt tiếng pháo, lực lượng Việt Minh đang chốt tại 1 phần đồi C1 lập tức xung phong, chỉ 5 phút sau, Quân đội Nhân dân Việt Nam đã chiếm được cao điểm Cột Cờ. Lực lượng Dù xung kích của Pháp mới lên tiếp viện bắn xối xả. Tuy nhiên, quân tiếp viên phía Việt Minh đã kịp thời có mặt từ dưới đánh lên, thành thế gọng kìm, trận chiến khốc liệt kéo dài đến nửa đêm bộ đội Việt Minh mới tiêu diệt được hoàn toàn cứ điểm C1.
Đến ngày 25, hàng loạt các cứ điểm khác của Pháp ở phía đông và phía tây lòng chảo cũng đã thất thủ sau những trận đánh với con số thương vong khủng khiếp cho cả 2 phía. Lực lượng Liên hiệp Pháp tại nhiều cứ điểm bị tiêu diệt hoàn toàn bao gồm cả lính Pháp, lính Lê Dương, và binh lính Quân đội Quốc gia Việt Nam. Quân Pháp phản kích nhiều lần nhưng thất bại. Ngày 5/5, đường hầm ở đồi A1 đã hoàn thành. Đến đêm hôm đó, 1 tấn bộc phá chia thành những gói 20kg, được đưa vào đặt dưới hầm ngầm Pháp. Tối ngày 6/5/1954, trước giờ G năm phút, bộ đội tuyến đầu chuẩn bị xung phong được lệnh quay lưng về A1, há miệng, nhắm mắt, đề phòng sóng xung kích và ánh chớp lúc nổ của lượng bộc phá khổng lồ.
Đúng 20h30. 1 tiếng nổ lớn từ trong lòng đất đã thổi bay cụm lô cốt bên trên, diệt phần lớn Đại đội Dù đóng ở đây. Pháo được nã cấp tập, và sau đó là đợt xung phong như vũ bão của Trung đoàn 174. Trên đỉnh đồi, lính dù Pháp dựa vào chiến hào và công sự kiên cố còn lại, đã ra sức chống đỡ, chờ quân tiếp viện. Quá nửa đêm, chiến sự vẫn rất ác liệt, Trung đoàn trưởng Nguyễn Hữu An quyết định đưa lực lượng dự bị vào tham chiến, chia thành các tổ nhỏ để tiêu diệt dần dần từng ụ đề kháng của Pháp. 4h sáng ngày 7/5/1954, Đại úy Jean Pouget bị thương nặng, ông cùng 34 lính dù còn lại đã sử dụng đến những viên đạn cuối cùng.
Không lâu sau đó, tất cả đều bị bắt sống. Lá cờ chiến thắng của Quân đội nhân dân Việt Nam tung bay trên cao điểm A1. Đúng 3h chiều cùng ngày, bộ đội Việt Minh tổng tiến công trên khắp các mặt trận, với 3 hướng chính, thọc sâu vào khu trung tâm. Quân Pháp đã sức tàn lực kiệt nhưng nhiều điểm vẫn chống cự đến cùng. Xác định rằng nếu Tổng chỉ huy đối phương hạ lệnh đầu hàng sớm sẽ giảm đáng kể thương vong của các hướng đang giao tranh. Đại đội trưởng Tạ Quốc Luật thuộc trung đoàn 209 lập tức dẫn Đại đội 360 dưới làn đạn pháo của địch, băng qua cầu Mường Thanh, bắt 1 lính người Việt của đối phương yêu cầu chỉ đường nhanh nhất tới sở chỉ huy của tướng Đờ Cát.
Lúc đó, Đại đội 360 chỉ còn 5 người Khoảng 17h chiều, sau khi dùng thủ pháo tiêu diệt tổ bảo vệ ở phòng ngoài sát cửa ra vào, 5 chiến sĩ vượt qua gian hầm thứ 2, tiến vào gian hầm giữa khá rộng, có mặt tướng Đờ Cát và các sĩ quan Pháp. Tạ Quốc Luật nói bằng tiếng Pháp: “Hãy đầu hàng đi. Các ông đã thua rồi. Các ông phải ra lệnh cho những ổ đề kháng còn lại hạ vũ khí, và điện về Hà Nội không cho máy bay ném bom xuống Điện Biên nữa”. Tướng Đờ Cát chấp nhận đầu hàng. 17h30 chiều, toàn bộ quân Pháp tại khu trung tâm đã hạ vũ khí. Cụm phân khu phía nam Hồng Cúm mưu đồ chạy sang Lào, nhưng bị các đơn vị Quân đội Nhân dân Việt Nam bắt sống gần hết.
Chỉ có một số ít, bao gồm 1 toán lính châu Âu chạy thoát vào rừng, và khoảng 40 lính người Thái nhảy xuống sông, băng rừng sang Lào, rất có thể nhóm lính này đã chạy về thẳng nhà quyết tâm làm kinh tế mới, bỏ hẳn nghiệp súng đạn. Đối với lực lượng Liên hiệp Pháp có 2.300 lính thiệt mạng, hơn 6600 người bị thương, mất tích hơn 1.700. Nó gây nên sự phẫn nộ trong xã hội Pháp, khi mà có quá nhiều lính Pháp đã nằm lại mãi mãi, mà thậm chí còn chưa tìm thấy hài cốt, ở 1 nơi đất khách quê người chỉ vì những mưu đồ chính trị và kinh tế. Số lượng còn sống hầu hết đều bị bắt làm tù binh, trong đó có cả lính bản xứ người Việt phục vụ cho Pháp . Về sau số lượng tù binh người Việt này, 1 phần trở về quê làm ăn, phần khác lại theo Pháp tập kết vào Nam tiếp tục phục vụ, và về sau trực thuộc Quân lực Việt Nam Cộng hòa.
Nhiều tù binh Pháp sau này khi trở về, đã cho biết. “Chúng tôi đã phải ăn uống rất kham khổ, đó là sự thật,. nhưng khi nhìn lại, thấy bộ đội Việt Minh ăn uống còn kham khổ hơn, . chúng tôi cảm thấy không cần phải than vãn nữa”.. Tướng Đờ Cát, sau khi thất bại trở về Pháp, đã trả lời trước Ủy ban Điều tra của Bộ Quốc phòng Pháp rằng. “Người ta có thể đánh bại một quân đội, chứ không thể đánh bại được một dân tộc”.. Chỉ huy phó của Tập đoàn cứ điểm, Đại tá Pierre Langlais viết trong cuốn hồi ký Điện Biên Phủ của ông. “Ở Điện Biên Phủ, nếu người ta muốn nhìn thẳng vào sự thật, thì ắt phải thấy rằng: . viện trợ cho Việt Minh chỉ là một giọt nước đặt bên cạnh dòng thác vật tư của Mỹ đổ vào cho người Pháp chúng ta”. . Về hỏa lực hạng nặng, ngoài số bị hỏng, còn lại Pháp mất toàn bộ xe tăng và pháo binh vào tay quân đội Việt Minh..
Cụ thể, phía Quân đội Nhân dân Việt Nam thu giữ 2 chiếc xe tăng M24, 28 khẩu pháo và súng cối, hơn 5.900 khẩu súng bộ binh, 20.000 lít xăng dầu cùng rất nhiều đạn dược, quân trang, quân dụng khác. Về không quân, Pháp bị tổn thất 59 phi cơ bị phá hủy . Ngoài ra còn có 186 phi cơ khác bị trúng đạn và hư hại ở các mức độ khác nhau. Phía Mỹ có 1 phi cơ C119 bị bắn rơi. và thiệt hại 2 phi công tử trận cùng 1 phi công bị thương. Thiệt hại về phía Quân đội Nhân dân Việt Nam theo hồ sơ quân y là 4.020 người đã nằm lại, gần 9.700 người bị thương, và 792 người mất tích. Hiện nay tại Điện Biên Phủ, có 3 nghĩa trang liệt sĩ trận này: tại khu vực gần đồi Độc Lập, gần đồi Him Lam và đồi A1. Do một trận lũ lớn vào năm 1954 cuốn trôi bảng tên trên các bia mộ, nên giờ đây, khoảng 4000 ngôi mộ đều trở thành liệt sĩ vô danh.
Chỉ có 4 ngôi mộ ở vị trí riêng là vẫn còn tên, đó là các liệt sĩ Bế Văn Đàn, Phan Đình Giót, Tô Vĩnh Diện, Trần Can. Một ngày sau khi Pháp để Điện Biên Phủ thất thủ, ngày 8/5/1954, Hội nghị Genève bắt đầu bàn về vấn đề Đông Dương. Pháp đã công nhận quyền tự do, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của các nước Đông Dương trong đó có Việt Nam, chính thức chấm dứt chế độ thực dân Pháp tại Đông Dương. Lần đầu tiên, 1 quốc gia thuộc địa châu Á dùng vũ lực buộc quân đội một quốc phương Tây rút về nước, giành lại độc lập. Sau sự kiện này, các nước thuộc địa Pháp ở châu Phi cũng đồng loạt nổi dậy. Chỉ riêng trong năm 1960, 17 nước châu Phi đã giành được độc lập, và đến năm 1967, Pháp đã buộc phải trao trả độc lập cho hầu hết các nước từng là thuộc địa của họ.
https://www.youtube.com/watch?v=CL20rxRI18wCuộc chiến Điện Biên Phủ 1954 | Việt Nam – Pháp
Jhgo xin được chào các bạn!. Ngày 02/09/1945, Nhật Bản chính thức ký văn kiện đầu hàng quân đồng minh . chấm dứt cuộc chiến thảm khốc bậc nhất lịch sử loài người.. Mọi đau thương tưởng như đã kết